Đứa Em Hạnh Phúc

Truyện ngắn Nguyễn Ý Thuần

Cho đến lúc gặp lại tôi sau tám năm, Chi vẫn chưa lấy chồng. Em tôi vẫn đẹp, dễ thương như ngày còn ở gia đình nhưng phong thái của một thiếu nữ trưởng thành hiện rõ. Nụ cười vẫn tươi nhưng từ tốn hơn. Mắt chưa mất nét long lanh nghịch ngợm nhưng thêm ánh độ lượng. Đôi mắt em tôi giống hệt mắt bố tôi lúc còn sống.
— Mày năm nay bao nhiêu rồi Chi?
— Hai mươi sáu. Anh hỏi làm gì?
— Sao không chịu lấy chồng?
— Anh năm nay bao nhiêu?
Tôi nhún vai trước nụ cười của Chi.
— Đàn ông con trai thì không sợ nhưng con gái coi chừng đấy.
— Em đâu có ngán.
Chi bắt chước tôi làm một cái nhún vai bất cần. Nhìn đứa em thứ mười bốn của gia đình trong phong thái chững chạc, lớn khôn bất giác tôi bàng hoàng. Mới ngày nào Chi còn bé, suốt ngày lăng xăng trong nhà, lẫn vào các anh em khác như một viên gạch được xây trong bức tường, bám chung vào vôi vữa cùng các viên gạch khác, tưởng nếu bị tách lìa thì khó lòng đứng vững. Vậy mà hôm nay, em tôi đã tự bắt đầu cuộc sống nơi xứ lạ. Một cuộc sống đủ để gia đình tôi yên tâm vì đứa con gái lưu lạc từ tấm bé.



Bố tôi thường nhầm tên và thứ tự của ba mươi bốn đứa con nhưng chưa bao giờ quên Chi. Đã có lần ông nói tại bàn ăn.
— Con Chi lạ lắm! Chẳng bao giờ bố có thể nhầm nó với đứa khác đuợc…Con bé này có tính tự tin, đẻ ra đã lưu lạc mấy năm, đón về được thì lủi thủi một mình, chẳng bao giờ vòi vĩnh… Cười nhiều hơn khóc
Cả nhà cùng xoay về Chi, con bé nhoẻn cười hồn nhiên, mắt nhìn quanh rồi ăn tiếp như chuyện bố vừa nhắc không có gì liên quan đến mình.
Chi là con thứ tư của dì ba. Đúng theo tuổi tác, Chi nhỏ hơn vài đứa trong nhà, nhưng theo ngôi thứ của sáu bà mẹ, Chi đứng thứ mười bốn và làm chị của hai mươi đứa em. Từ bé, Chi đã có nhiều điểm khác với các anh, chị, em. Từ việc học đến việc chơi, Chi dễ dàng hòa đồng với người khác để cùng sinh hoạt nhưng khi không có ai bên cạnh, một mình nó vẫn làm được mọi việc như khi có mọi người. Tự mình tạo cho mình một thế giới riêng. Cảnh con bé chơi bán hàng một mình, lang thang trong vườn, ngồi ở một góc nhà để học đã thành quen thuộc với gia đình tôi. Hoặc ngược lại, bắt gặp Chi tung tăng cạnh bạn bè, tham gia sinh hoạt Hướng Đạo, học chung với bạn cùng lớp cũng là tự nhiên. Với Chi hình như tất cả mọi việc đều dễ dàng tiếp nhận.
Lại nữa, Chi học rất giỏi. Suốt thời gian tiểu học chưa bao giờ em tôi xếp hạng nhì trong lớp. Mỗi tháng đem về nhà một bảng danh dự, Chi xếp vào ngăn kéo riêng, chẳng bao giờ lôi ra xem lại như việc lãnh bảng danh dự và đứng nhất lớp là điều tự nhiên. Bạn bè cùng lớp thay vì ganh ghét lại qúi mến và hãnh diện bởi có Chi bên cạnh.
Như một hạt giống tốt dễ nẩy mầm, em tôi đến trường như ở nhà, trong xóm cũng như ngoài phố. Cha và các mẹ như thầy cô. Anh em như bạn bè. Chú Tâm tài xế như chú Ía bán ve chai. Chi tìm được sự gần gũi, thân tình từ mọi người. Chi sống, lớn lên bằng tình thương và tạo cho người chung quanh một không khí thoải mái, bình đẳng, không bao giờ tự mãn bởi những điều đã có. Sức sống của em tôi thật lạ kỳ. Lạ kỳ ngay từ lúc mới sinh.
Sinh ra được bốn ngày thì Chi lạc mất mẹ. Dì ba bị bắt vì có người vu họa từ sự ganh ghét. Bấy giờ gia đình tôi chưa có điều kiện ở chung, bố tôi đi vắng, các dì và mẹ tôi vừa di cư vào Nam còn lạ đất, lạ người nên không thường xuyên liên lạc với nhau. Việc dì ba bị bắt mãi hơn tháng sau gia đình mới biết. Đến nơi chỉ thấy ba đứa lớn, còn con bé mới sinh bị giao cho một người lạ nuôi. Lý do thật ngớ ngẩn: các cô y tá tưởng dì ba là Cộng Sản chen vào đoàn người di cư, bị bắt không biết ngày về nên đem đứa con gái vừa sinh cho một gia đình hiếm muộn. Khi bố tôi về, đón được các em và dì ba thì chuyện đã rồi. Đứa con xấu số đã lạc khỏi gia đình, không còn manh mối nào ngoài việc con bé có bốn cái nốt ruồi son trên bắp chân trái.
Ba năm sau gia đình tôi dọn về Nha Trang. Việc xảy ra đối với mọi người như một lần mất mát trong đời, dần dà cũng nguôi ngoai nhưng dì ba lúc nào cũng ủ rũ để tâm tìm đứa con gái bị lạc chưa kịp đặt tên. Suốt thời gian còn ở Sài Gòn, dì thường xuyên vắng mặt trong nhà, đi lang thang khắp nơi. Gặp đứa bé gái nào trạc em tôi, dì luôn luôn tìm cách vạch bắp chân trái để xem và để thất vọng. Thời gian đó, dì ba sống trong tâm trạng khủng hoảng, không ai có thể khuyên can được. Con bé còn như đã mất và ngược lại vắng mặt nhưng như có mặt trong tình mẫu tử. Cứ thế, cho đến lúc rời Sài Gòn, dì ba mất hết nửa phần hy vọng. Hơn bốn trăm cây số từ Sài Gòn đến Nha Trang sao xa quá.
Với tôi nói riêng, với gia đình tôi nói chung, Nha Trang là một thành phố kỷ niệm. Tất cả anh em tôi sau này nhắc về Nha Trang luôn luôn bằng sự tiếc nuối. Chúng tôi đã khôn lớn, biết thương yêu từ biển và gíó. Mỗi ngày là một niềm vui cho từng đứa, là một mảnh hạnh phúc đắp vào cho gia đình. Từng góc phố, từng con đường đã thân quen đến độ bây giờ còn hình dung được. Và Nha Trang với dì ba còn đáng nhớ hơn. Đó là nơi Chi trở về gia đình.
Hơn năm năm tìm con nhưng không gặp, ba năm ở Sài Gòn và gần ba năm ở Nha Trang, dì ba tưởng đã tuyệt vọng. Trong thời gian này gia đình tôi tăng thêm gần chục đứa, trong số đó có hai đứa con của dì ba. Con số anh em tôi lên đến ba mươi bốn, kể cả con bé mất tích chưa được đặt tên. Trong nhà, ngày thêm đông, thêm vui nhưng riêng dì ba vẫn buồn và lúc nào cũng trong tâm trạng âu lo về con cái, đứa nào vắng mặt hơi lâu là dì thấp thỏm sợ hãi. Nỗi ân hận về việc lạc mất đứa con vừa sinh đã biến dì ba thành một người luôn bất an.
Gia đình tôi thường tổ chức những buổi cắm trại cuối tuần. Đi đảo hoặc đến một bãi tắm xa thành phố: Hòn Chồng, Bãi Miếu, Bãi Dương, Hòn Yến… Trừ mẹ tôi ở nhà, còn năm bà dì đều tham dự và như trẻ lại. Tắm, đùa, ca hát với đám con thật tự nhiên. Nhất là dì út, bà dì nhỏ hơn anh cả tôi gần chục tuổi, bày ra nhiều trò nhất, và được mọi người hưởng ứng, tham dự. Cả nhà đều vui, và trong sinh hoạt này, dì ba gặp lại đứa con bì thất lạc tại Bãi Dương vào một ngày chủ nhật.
Tôi còn nhớ lần trùng phùng buồn cười và cảm động này. Cả nhà đang vui đùa chợt dì ba biến sắc mặt, chạy ào đến một đứa bé gái đang nghịch cát gần đấy. Trước sự ngạc nhiên của người chung quanh, dì đứng lại trước mặt con bé một lúc lâu, rồi qùi xuống, nắm lấy chân trái con bé, xoa lên các nốt ruồi son trên bắp chân, nước mắt trào ra. Con bé thay vì sợ hãi hay khóc thét lên như những đứa trẻ cùng tuổi lại tự nhiên toét miệng cười trước hành động của người đàn bà xa lạ. Tình máu mủ? Hay tính lạc quan, thân thiện đã biểu hiện qua cử chỉ của em tôi? Dì ba lắp bắp vài tiếng rồi ôm choàng lấy đứa bé, hôn như mưa lên mặt. Con bé vẫn không né tránh mà còn đưa tay ôm lấy dì. Đó là Kim Chi. Nguyễn Thị Kim Chi, đứa con thất lạc của gia đình tôi, đã được đặt tên bởi bố mẹ nuôi. Vợ chồng ông, bà bác sĩ cũng mang họ Nguyễn.


Như thế, em tôi có hai gia đình để sống. Tuần ở nhà tôi, tuần ở nhà bố mẹ nuôi. Con bé đi đi, lại lại như con chim hạnh phúc giữa hai bên. Bố nào cũng là bố, mẹ nào cũng là mẹ. Hai bố và bảy mẹ cùng như nhau. Góc nhà bên này hay khoảng vườn bên kia đều thân quen. Chi vui vẻ ăn, học, nghịch ngợm với mọi người chung quanh, với chính mình. Em tôi lớn như thổi, mười sáu tuổi đến không ngờ với tình yêu.
Như phần lớn thanh niên lớn lên tại miền biển, em tôi cũng mơ mộng, lãng mạn. Gối đầu là cuốn thơ Nguyên Sa, ấn bản Áo Lụa Hà Đông. Bỏ trong cặp sách là truyện của Dung Sài Gòn, Võ Hà Anh, Hoàng Ngọc Tuấn v.v… Con bé giờ đã thành cô bé. Nét hồn nhiên, nghịch ngợm đã thành tinh quái, dịu dàng với đôi mắt biết cười. Khối cậu đã chết mệt vì Chi và thành đầu đề của các chuyện vui trong bữa cơm.
— Hôm nay có gì lạ không Chi?
— Chẳng có gì anh ạ! Em nhận được có hai lá thư.
— Sao ít vậy?
— Chắc tại tem mắc.
Nửa bàn ăn của gia đình tôi phá ra cười. Trừ dì út, bố tôi và các mẹ đều lắc đầu nhìn bầy con. Dì út còn trẻ nên thích tham dự những trò vui. Chính dì là người bày ra trò “bình thư” của các cây si dại dột viết thư cho Chi.
— Dì út “bình” nghe?
Anh ba tôi hỏi. Dì út lắc đầu.
— Tôi đọc thôi, hôm nay các anh chị “bình” đi.
Sau đó lá thư của kẻ si tình bị đem ra mổ xẻ từng dấu chấm, phẩy. Rồi “luận”, rồi “bình”, rồi “đo cường độ tình yêu”… Đủ thứ trò được bày ra. Tội nghiệp cho các chàng trai vừa lớn đã yêu em tôi.
Nhưng không phải tất cả những lá thư Chi nhận được đều bị đem ra “giải phẫu”. Em tôi cất riêng các phong thư của một thằng tốt số nhưng xấu trai. Đó là Sự, bạn của tôi.
Sự nổi tiếng trong giới học sinh Nha Trang từ những năm trung học nhờ các bài thơ đăng báo. Ngoài điểm xấu trai, còn lại tất cả những điều khác nó đều hơn chúng tôi. Từ việc học đến các sinh hoạt khác Sự luôn luôn dẫn đầu. Trong mắt đám học sinh tỉnh lẻ thì việc Sự có thơ đăng báo là điều đáng phục nhất. Lại là các tờ báo”nặng ký” lúc bấy giờ. Toàn là Văn, Bách Khoa… Sự không nhìn đến những tờ báo theo nó là lá cải và đầy thương mại tính.
Bọn tôi chơi với nhau từ tấm bé. Sự lui tới gia đình tôi thân quen đến độ bố tôi đã gọi đùa nó là đứa con thứ ba mươi lăm. Học cùng lớp, ngồi cùng bàn, hợp tính nhau nên Sự và tôi là cặp bài trùng. Cùng đi song song trong suốt đoạn đời mười mấy năm, sự gắn bó đã đến với hai đứa qua từng biến cố xảy ra. Năm tôi thất tình bỏ đi lính thì Sự cũng bị động viên. Hai đứa vào cùng khóa sĩ quan trừ bị. Ra trường cùng về Biệt Động Quân. Tôi cố tình, còn nó bị “cọp liếm”. Học xong khóa Rừng Núi Sình Lầy thì định mệnh lại tiếp tục buộc lấy hai đứa. Cùng về liên đoàn. Rồi tiểu đoàn. Mỗi đứa ở một đại đội và tình thân vẫn như ngày ở Nha Trang. Đến độ chỉ hơn tháng sau khi về đơn vị, thiếu tá tiểu đoàn trưởng đã cho chúng tôi về chung đại đội. Mỗi đứa chỉ huy một trung đội.
Sự và Chi yêu nhau lúc bọn tôi vừa xong tú tài đôi. Dù gặp nhau hàng ngày nhưng hai đứa vẫn khoái chơi trò thư từ. Và tôi biến thành bưu tín viên của mối tình đó. Mỗi ngày hai đứa trao nhau một lá thư, có khi hai lá không chừng. Trước hạnh phúc của đứa em gái và thằng bạn thân, tôi cũng vui lây. Nhưng đôi lúc thấy bọn nó viết thư hăng qúa, tôi cũng mệt và đâm ghen với hạnh phúc của bạn và em. Đã có lần tôi cảnh cáo Chi khi nhận được lá thư thứ hai trong ngày.
— Viết gì mà lắm thế? Học không lo học, chỉ lo viết thư, coi chừng tao mách bố mẹ à!
— Em vẫn đứng đầu lớp mà…
Chi cười, rồi tiếp.
— Anh mà mách thì bố mẹ la anh trước.
Tôi chỉ biết cười theo vì Chi vẫn chuyển thư cho tôi và Jeanne, còn Sự thường “gà” tôi làm thơ và viết thư tình. Có qua, có lại mà! Chúng tôi lớn lên trong vòng tròn tình cảm đó.
Em tôi bắt đầu làm thơ lúc Sự và tôi vào lính. Con bé phát triển máu văn nghệ bằng các bài thơ tình kèm theo những lá thư gửi cho Sự. Suốt khoảng thời gian đóng quân tại Bồng Sơn, Tam Quan, Sự “tra tấn” tôi liên tục bằng cách đọc những bài thơ tình của nó và của em gái tôi… họa lại cho tôi nghe. Hãy tưởng tượng đến cái hứng của thằng bạn thi sĩ xấu trai này nổi lên vào lúc nửa đêm, nó vượt qua lớp mìn bẫy để mò vào tuyến của tôi.
— Dậy mày! Tao có cái này hay lắm.
— Gì?
— Một bài thơ mới làm.
— Mẹ kiếp! Đọc đi.
— Mày phải ngồi dậy hẳn hòi chứ..
— Tao nằm nghe mày đọc… phê hơn.
— Đừng lười, dậy đi.
Tôi chửi thề thêm vài tiếng trước khi ngồi dậy. Sự bắt đầu đọc thơ, rồi bình thơ. Mặc tôi với từng cái ngáp ngắn, ngáp dài, bạn tôi thản nhiên làm công tác thi sĩ. Sau cùng luôn luôn là câu hỏi.
— Hay không?
Rồi chẳng cần chờ câu trả lời, Sự bỏ tôi ngồi một mình, lặng lẽ trở về tuyến. Chưa hết! Có lần bạn tôi bày trò đọc thơ em gái tôi trên máy PRC-25. Bất kể hậu qủa thế nào, Sự vẫn bắt tôi chiều ý. Tôi im lặng bởi còn ai thân quen nơi vùng đất xôi đậu này? Và kết thúc việc này là cả hai đều lãnh phạt.
Tôi đã nghĩ đến một đám cưới của thằng bạn xấu trai và con em đẹp gái nhiều lần. Hẳn là vui lắm bởi cả nhà tôi đều chịu thằng rể tài hoa và rỗ hoa này. Nó đến gia đình như một luồng gió lạc quan và vui vẻ. Hệt như cá tính của em tôi và cũng thật hợp với ông bố đa tình và sáu bà mẹ. Sự tự nhiên đến độ đã gọi bố tôi là “bố” và xưng con ngọt xớt. Những lúc đó, tôi thấy mắt Chi có ánh rất lạ. Và cũng thế, Chi được ba má và gia đình Sự “chịu” lắm. Con bé ngày thường láu lỉnh và hồn nhiên nhưng lúc đến nhà Sự thì chỉ còn một nửa. Cái láu lỉnh biến mất, chỉ còn nét hồn nhiên cộng thêm vẻ nhu mì, dịu dàng. Trước mắt tôi, con em gái rõ ràng có khiếu làm dâu. Tôi nói điều này. Chi cười.
— Thì… thì… Em đến nhà người… lạ mà!
— Lạ cái gì? Mày giống như con cắc kè lúc xanh, lúc đỏ.
— Bậy.
— Chứ còn gì nữa? Bao nhiêu cái láu cá, khôn vặt biến mất trơn. Trời ơi! Tao tưởng mày không phải là em tao nữa chứ.
— Bậy.
Con gái chúa khôn! Sự đã nhiều lần “đứt hơi” vì con bé làm tội, làm eo hay biểu diễn những màn giận hờn vớ vẩn. Dù là một thằng thông minh, tài hoa, nhưng trước con bé, Sự vẫn là anh chàng si tình kỳ cục và ngớ ngẩn nhất thế giới. Ngớ ngẩn đến tội nghiệp. Chính bố tôi đã phải nói trong lần chúng tôi về phép mãn khóa.
— Thằng Sự sau này chỉ hơn đuợc tao có một tính, đó là “đức sợ vợ”.


Nhưng chẳng bao giờ em tôi được hưởng cái thú có ông chồng sợ vợ và Sự cũng không được chứng tỏ cái “đức sợ vợ” đúng mức và đủ nghĩa. Nó đã “mất tích” trong lần triệt thoái tại liên tỉnh lộ 7B.
Đại úy Sơn, quyền tiểu đoàn phó gặp tôi tại Tuy Hòa sau đoạn đường đầy máu và nước mắt. Trên tay ông là cái kính cận thị của Sự. Một bên tròng kính đã bị vỡ.
— Cậu phải bình tĩnh nghe tôi nói…
Điều bất an đến trong tôi khi gặp thái độ của đại úy Sơn với cái kính của Sự trên tay.
— Có gì không đại úy?
— Cậu hãy bình tĩnh. Tôi biết Sự và cậu rất thân, còn hơn hai anh em ruột nữa…
Tôi bắt đầu hiểu đã có điều gì xảy ra cho Sự. Nén xúc động, tôi nói thật chậm.
— Đại úy cứ nói, tôi đủ bình tĩnh.
— Sự đã chết. Lúc đi qua chiếc cầu nhỏ dẫn đến Phú Túc, Sự dẫn anh em đi mở đường và nguyên trái 57 đã bắn vào cậu ta. Tôi chỉ còn chiếc kính đem về cho cậu.
Dù đã chuẩn bị, dù đã tự trấn tĩnh nhưng tay tôi run hẳn. Hình ảnh của em tôi hiện về. Con bé sẽ thế nào khi nhận được tin này? Tôi ngơ ngác đứng giữa giòng người di tản. Cái chết của một người lính như trăm ngàn người lính khác đã không còn bình thường với tôi nữa. Lần này là Sự, là thằng bạn tài hoa, là người yêu của Chi. Tôi sẽ nói sao với con bé… Những ý nghĩ xoay tròn làm tôi mệt mỏi. Tôi dựa lưng vào bờ tường, hai tay buông thõng, khẩu M.16 rơi trên mặt đất. Đại úy Sơn cúi xuống, nhặt khẩu súng đặt cạnh tôi.
— Tôi rất buồn, Sự là một cấp chỉ huy tốt…
— Vâng.
— Cậu hãy cố gắng về Sài Gòn. Đừng nản chí. Cuộc chiến này đã đến lúc… Các cậu còn trẻ…
— Đại úy…
Đại úy Sơn nhún vai, rầu rĩ đi về phía tiểu khu. Tôi không còn lại gặp ông. Và mẩu tin về Sự cũng chỉ bấy nhiêu, gọn ghẽ và nhỏ bé như cái kính cận đã bị vỡ một tròng.
Trong cuộc sống chúng ta đã nói dối nhiều lần. Có những điều nói ra, rồi quên mất như chưa từng được nghĩ. Bình thường và dễ xảy ra trong sinh hoạt, tưởng không có gì áy náy khi nhớ lại. Nhưng cũng có những điều nói dối làm chúng ta ân hận một đời. Tôi đã gặp. Đó là lần nói dối em tôi về cái chết của Sự.
— Anh…
— Tao làm sao biết được? Mỗi đứa đi một ngã, về đến Tuy Hòa chẳng thấy nó đâu. Hỏi anh em trong đơn vị thì không ai rõ cả, nhưng ai cũng bảo gặp nó lần cuối tại Phú Túc, vẫn khỏe mạnh và lành lặn.
— Gần Phú Túc? Phú Túc là ở đâu anh?
— Là một làng nhỏ nằm ven liên tỉnh lộ 7B, trên đường về Tuy Hòa.
— !!!
— Rất nhiều người nói có một số anh em Biệt Động Quân bị bắt gần đó. Tao nghĩ nó cũng nằm trong số này… hoặc may mắn hơn, nó đang trên đường về Sài Gòn.
— Em hy vọng vậy.
— Mày đừng lo, thằng Sự “thọ” lắm.
— Em tin vậy.
Đó là một ngày cuối tháng ba năm 75, lúc tôi vừa về gia đình trước kni theo đơn vị xuống Long An. Hơn tháng sau ngày 30 tháng tư năm 1975, Chi vượt biên với gia đình bố mẹ nuôi. Tôi vào trại tù cải tạo. Chiếc kính cận của Sự bị bỏ quên trong ngăn tủ đựng sách vở của tôi.


— Đâu phải là ngán hay không ngán. Hai mươi sáu tuổi rồi, mày phải tính chứ?
— Có gì đâu mà phải tính, anh nói nghe mà ghê… Vả lại…
Chi bỏ lửng câu nói, ngồi xuống. Em tôi có vẻ phân vân như muốn nhắc đến điều gì đó. Tôi liên tưởng đến Sự, thằng bạn đã chết, như lời đại úy Sơn nói. Qủa nhiên sau phút ngập ngừng, Chi tiếp khi bàn tay phải xoay xoay tách trà đặt trên bàn.
— Anh… anh… có tin gì của anh Sự không?
— !!!
— Em có hỏi thăm nhiều người, nhưng không ai biết cả. Đã gần mười năm bặt tin.
— Tao làm sao biết được? Từ ngày mất nước, vào tù, trốn về, rồi lang thang ở Sài Gòn, sống bằng đủ thứ nghề khi trốn tránh tao đâu có phút nào rảnh…
Tôi lấp liếm. Chi im lặng nhìn tôi, chén trà vẫn xoay từng vòng đều đặn theo nhịp các ngón tay tưởng như không bao giờ ngưng. Khoảng trống giữa hai anh em chợt có. Tôi ngượng, sau mới nói lửng lơ.
— Đã lâu rồi… Tám, chín năm rồi còn gì nữa…
— Sao anh?
— Chuyện cũ rồi Chi ạ!
— Cũ?
— Phải.
— Anh cũng nghĩ thế?
Chi ngước lên, nói thêm với giọng đều đều như những câu nói đã được nghĩ sẵn.
— Đó là với mọi người. Nhưng với em, chuyện vẫn mới như hôm qua.Và lạ lắm anh ạ, lúc nào em cũng tưởng như có anh Sự bên cạnh. Hoặc như anh ấy đang ở gần đây lắm. Rất gần.
Câu chuyện của hai đứa không giản dị như tôi nghĩ. Sau tám năm em tôi vẫn mang hình ảnh Sự. Từ mắt, từ giọng nói, từ thái độ Chi khi nói làm tôi sợ. Tin hay bị mê hoặc trong nếp nghĩ một chiều. Tội nghiệp em tôi.
— Em tin vậy. Đã gần mười năm em theo ba má qua nhiều tiểu bang, cuối cùng về Arizona, lúc nào em cũng cảm thấy như có anh Sự bên cạnh. Điều này cho em tin có ngày gặp lại. Em đã yên tâm học và chờ. Anh thấy không, đến giờ này em vẫn chưa quen biết ai cả.
Chi mỉm cười sau câu nói. Hai khóe đồng tiền lúm trên má rõ sâu làm cái cười thành duyên dáng và rạng rỡ. Em tôi vẫn đẹp. Hai mươi sáu tuổi mà Chi vẫn còn nét tinh anh như một cô gái vừa lớn. Tôi bùi ngùi nghĩ đến quãng đời vừa qua của Chi.
— Dù sao em cũng phải lo cho tương lai.
Chi chớp mắt khi nghe được tiếng “em” hiếm hoi của tôi rồi lại mỉm cười.
— Anh lại sắp sửa khuyên em như mọi người đã khuyên. Anh đừng lo, vài năm nữa em ra trường, gặp lại anh Sự là tương lai đó. Anh mới sang đáng lo hơn em.
Chi xoay sang chuyện khác và chính tôi cũng muốn thế. Đó là lần đầu tiên anh em tôi gặp lại tại Mỹ.

Bây giờ là năm thứ mười bốn từ ngày mất nước. Tôi đã ba mươi bảy tuổi và em tôi ba mươi mốt. Cả hai đều chưa có gia đình. Với một người đàn ông kém tài như tôi trên đất Mỹ thì đó là điều bình thường. Nhưng với em tôi thì đó là điều bất thường cho một cô bác sĩ xinh đẹp.
Anh em tôi vẫn tứ tán, mỗi đứa ở một tiểu bang, hàng năm chỉ được gặp nhau một lần vào dịp cuối năm dương lịch. Lần nào cũng thế, khi nhắc đến Sự, em tôi gạt những lời tôi nói về sự chờ đợi. Luôn luôn Chi tin vào ngày gặp lại. Và niềm tin đó lớn theo thời gian. Cho đến mùa đông năm nay, năm 1988, với Chi, những lời khuyên nhủ gần như đã thành xúc phạm đến điều em tôi ôm ấp.
— Anh đừng nói nữa, mười mấy năm em đã không đổi thì bây giờ làm sao thay được? Lúc nào trong em, anh Sự vẫn như ngày xưa.
— !!!
— Anh út cứ kệ em nghe.
Tôi mím môi nghĩ đến tuổi ba mươi mốt của em tôi. Đã đến lúc Chi cần một cuộc sống bình thường như những người đàn bà khác. Không thể đắm trong sự chờ đợi vô vọng được. Trước sau cũng phải một lần nói thật với Chi. Cuối cùng tôi thu hết can đảm, nói nhanh.
— Gỉa dụ có ai bảo Sự đã chết hay có gia đình rồi mày nghĩ sao?
— Chết?
— Phải
Có khoảng tối trũng hiện lên trong mắt em tôi. Đôi mắt hết long lanh biết cười. Khuôn mặt Chi lạ hẳn. Sự sinh động chìm xuống, chỉ còn khuôn mặt như bị nặn bằng sáp. Những nét lạ tôi chưa từng thấy trên mặt em tôi, từ thuở bé đến giờ. Chi thẫn thờ nói nhỏ.
— Em… em… chưa nghĩ đến điều này bao giờ cả. Nhưng… nhưng sao anh lại nói thế?
— Tao chỉ gỉa dụ như vậy thôi.
Tôi thở dài, rồi chấm dứt ý định nói ra sự thật. Từ lúc đó cho đến khi đưa Chi ra phi trường về Arizona, anh em tôi không nhắc lại chuyện đã nói. Suốt khoảng thời gian ở Santa Ana, Chi như người mất hồn. Em tôi có vẻ bị ám ảnh bởi lời nói của tôi. Sau cùng chính tôi lại là người khuyên Chi nên “chờ đợi.”

Hôm nay là ngày cuối năm âm lịch, tôi vừa viết xong lá thư cho Kim Chi. Đoạn cuối là câu chúc: “Mong em hạnh phúc trong xuân này”. Một câu chúc bình thường như mọi người vẫn dùng. Nhưng với tôi đó lại là điều ray rứt. Tôi phải nói dối em tôi thêm lần nữa. Đành thế! Bởi giữa hạnh phúc và sự thật đôi lúc vẫn bị ngăn bằng một khoảng cách. Đó là đời sống của những người đang sống.

Nguyễn Ý Thuần
Viết xong ngày 4 tháng 2 năm 1989 tại Irvine


bìa tạp chí Thế Kỷ 21 Số ra mắt, tháng năm, 1989

(Đăng trong tạp chí Thế Kỷ 21 Số ra mắt, tháng năm, 1989
– In trong tập truyện ngắn “Người Lính Còn Lại”, Nhân Văn xuất bản năm 1991)



 ______________________________________________________________________________________

Người Lính Còn Lại

…. còn lại hai mươi lăm người gồm đàn bà và trẻ con. Những con người chưa bị ném vào đời một lần bắt đầu sống trực diện với cuộc đời đã hoàn toàn thay đổi. Và tất cả bốn mươi ba người đều không nghĩ, không hề nghĩ rằng: đó là buổi tối sum họp cuối cùng trong kiếp người họ Nguyễn…. Đọc tiếp __________________________________________________________________________

 Thư Có Người Nhận

…Những hành động, thái độ ẩn hiện qua mười con người khốn khổ. Sự khoái lạc, ham muốn chỉ là cố gắng. Cố gắng làm các động tác để sống trước sự reo hò, hối thúc, thích thú của bọn hải tặc. Những đôi mắt nhắm nghiền tránh nhìn vào đôi mắt cá ươn trên khuôn đàn bà đang cùng họ bị ép vào trò chơi đớn hèn, khổ nhục…. Đọc tiếp