Cậu Út

Truyện ngắn Nguyễn Ý Thuần

Tôi bắt đầu khó chịu khi gặp hắn trước lần hẹn thứ ba. Vẫn bộ quần áo vàng dành cho sinh viên sĩ quan lúc đi phép, hắn thản nhiên ngồi tại câu lạc bộ sĩ quan. Chung quanh, mọi người đều mặc đồ trận, kể cả những sĩ quan trẻ ngồi cùng bàn với hắn. Trừ bộ quần áo khác người, còn lại từ thái độ đến cung cách ăn nói của hắn không có gì khác lạ. Nâng ly bia, cụng ly, uống một hơi dài. Rồi cười nói, vung tay, xoãi chân như việc hắn có mặt tại đây trong bộ quần áo vàng là điều tự nhiên. Bất cần thiên hạ với những cái nhìn kỳ cục ném về. Kể cả tôi, tiểu đoàn trưởng của tiểu đoàn hắn phải trình diện.
Một vài cái nhìn của đám sĩ quan trẻ ngồi cùng bàn với hắn hướng về khi tôi ngồi xuống. Những cái cười, cái gật đầu được làm. Tôi gật đầu đáp lễ. Hắn cầm ly bia lên uống một hơi dài. Đám sĩ quan trẻ cùng bàn thì thầm với hắn. Hẳn đang nói về tôi. Đột nhiên tôi có ý nghĩ theo dõi thái độ hắn – sau khi đã biết tôi sẽ là tiểu đoàn trưởng của hắn – thì thế nào. Ngạc nhiên? Bối rối? Rồi sẽ làm một cái chào làm quen đầy ngượng ngùng như hầu hết các sĩ quan vừa ra trường về trình diện đơn vị. Nhưng không, mọi suy đoán của tôi đều sai. Chỉ thấy sau các câu thì thầm của những người ngồi cùng bàn là cái gật đầu hờ hững của hắn. Lại thêm một câu nói của người ngồi bên trái hắn. Lần này tôi cảm thấy khó chịu vì bắt gặp cái nhún vai của hắn.
Nén bực bội, tôi quay sang hướng khác. Thái độ dửng dưng và cái nhún vai của hắn vẫn đeo đuổi tôi. Cảm giác khó chịu mỗi lúc mỗi tăng khi tiếng cười nói của bàn hắn vang đến. Cuối cùng là tự ái bùng lên với ý nghĩ bị coi thường. Dù sao hắn cũng chỉ là một sĩ quan thuộc cấp, không thể có hành động như thế được.

Tối Tháng Năm Tại Quán Ăn Đường Fifth


tặng Cao xuân Huy

– Hình ảnh cuối của tao về cuộc chiến là cái xác cụt đầu nằm vắt ngang bờ ruộng. Hai bàn chân trắng bệch gác lên mặt đường.
– Của…
– Chẳng biết của ai. Vỏn vẹn một cái quần đùi với những vệt máu đặc bám quanh cổ.
Họ nhìn nhau rồi cùng quay sang hướng khác. Người có râu xoa cằm. Những sợi râu xoắn lại làm vệt bọt bia bám trên mép loang xuống, lấp lánh ánh đèn hắt vào. Ðám râu như khuyết một lỗ.
– Thảo nào…
– Thảo nào cái gì?
– Ít khi nghe mày kể chuyện lính.
Người không râu không trả lời. Khuôn mặt trắng xanh có đôi lông mày rậm, giao nhau giữa trán. Trừ đôi lông mày, hắn trông hiền như người chỉ biết bốn bức tường và các dụng cụ văn phòng. Hắn bưng ly bia lên uống cạn, buông một tiếng “khà” khoan khoái khi nhìn qua khung cửa kính. Bên kia đường là bãi đất trống cạnh con đường nhỏ, sâu, yên tĩnh với hai hàng cột điện sáng vàng vọt. Một vài chiếc xe vụt qua, ánh đèn loé lên rồi tắt như chưa từng có.
Từ ngã tư, đèn đường thay từng lúc hắt lên mặt người có râu những vệt màu. Hung hãn đỏ. Mệt mỏi xanh. Rồi màu da hòa vào vàng. Khuôn mặt biến theo nhịp đèn, chỉ còn đám râu với vệt bia bẩn không đổi. Ðôi mắt hắn nheo lại, những nếp nhăn nổi lên.

nhắc nhau một thủa ấu thời

Thơ Nguyễn Ý Thuần

ô quan
kẻ ô đếm sỏi trao nhau
thả ao cá thử ai giàu hơn ai
mười năm đời bỗng chia hai
vạch ranh ngày cũ chẳng phai trong hồn

lò cò
bẹt, cò nghiêng ngả chân son
tranh nhà, chia đất cũng hòn gạch thôi
hôm nay gặp giữa chợ đời
sao chia cay đắng trên lời chào nhau

Đứa Em Hạnh Phúc

Truyện ngắn Nguyễn Ý Thuần

Cho đến lúc gặp lại tôi sau tám năm, Chi vẫn chưa lấy chồng. Em tôi vẫn đẹp, dễ thương như ngày còn ở gia đình nhưng phong thái của một thiếu nữ trưởng thành hiện rõ. Nụ cười vẫn tươi nhưng từ tốn hơn. Mắt chưa mất nét long lanh nghịch ngợm nhưng thêm ánh độ lượng. Đôi mắt em tôi giống hệt mắt bố tôi lúc còn sống.
— Mày năm nay bao nhiêu rồi Chi?
— Hai mươi sáu. Anh hỏi làm gì?
— Sao không chịu lấy chồng?
— Anh năm nay bao nhiêu?
Tôi nhún vai trước nụ cười của Chi.
— Đàn ông con trai thì không sợ nhưng con gái coi chừng đấy.
— Em đâu có ngán.
Chi bắt chước tôi làm một cái nhún vai bất cần. Nhìn đứa em thứ mười bốn của gia đình trong phong thái chững chạc, lớn khôn bất giác tôi bàng hoàng. Mới ngày nào Chi còn bé, suốt ngày lăng xăng trong nhà, lẫn vào các anh em khác như một viên gạch được xây trong bức tường, bám chung vào vôi vữa cùng các viên gạch khác, tưởng nếu bị tách lìa thì khó lòng đứng vững. Vậy mà hôm nay, em tôi đã tự bắt đầu cuộc sống nơi xứ lạ. Một cuộc sống đủ để gia đình tôi yên tâm vì đứa con gái lưu lạc từ tấm bé.

Người Đàn Ông Chủ Nhật


Truyện ngắn Nguyễn Ý Thuần

Hắn nằm trên nệm ghế. Hơi thở dồn với vệt rãi bám trên mép trông như đứa trẻ trong giấc ngủ. Ví von thế cũng gượng khi nhìn hắn. Vạm vỡ, mạnh, nồng mồ hôi và bừng chất đàn ông làm giống cái phải thèm. Nhưng tôi vẫn nghĩ là một đứa bé để được an tâm qua sự quan hệ không bình thường. Thân như vợ chồng nhưng cũng lạ như hai người chưa lần gặp.
Đến giờ tôi vẫn chưa biết tên thật của hắn. Ngày theo ngày, hắn mang những cái tên mới. Lúc thì Minh. Lúc thì Huy. Lúc thì Trường… Mỗi tên mang một nhân cách và tên tôi cũng đổi. Dung. Hà. Jeanne, Mary…   Quá nhiều tên được gọi và dùng tôi không thể nhớ hắn đã mang tên gì và mình là ai. Chúng tôi lẫn vào những người lạ. Nhưng dù tên gì hay là ai, tôi luôn được đón và nhận những điều tưởng không thể có.

Tôi không đẹp. Điều này tôi biết từ ngày vừa lớn. Thứ nhan sắc trung bình của đứa con gái nhà nghèo chỉ cho tôi giấc mơ bình thường như lấy chồng, đẻ con, nấu nướng, may vá, làm việc vặt trong bốn bức vách gỗ. Chỉ vách gỗ chứ không dám nghĩ đến bốn miếng tường tô vôi vữa nên tôi đã sống lặng lẽ cho đến ngày Vị chết.
Sau hơn hai mươi năm, tôi chỉ còn các nếp nhăn, các đụn mỡ dư, không cần thiết cho lần hồi xuân. Số vốn nhỏ vơi hẳn sau đám táng Vị. Người chồng đi mang gần hết những gì mang lại để tôi ngơ ngác khi ba đứa con về với gia đình riêng ở ba thành phố khác. Căn chúng cư một phòng vắng hơn khi tôi bắt đầu sống một mình.

Đêm Biển Chia Đôi


Truyện ngắn Nguyễn Ý Thuần

Họ ngồi trên một bệ xi măng, sát con đường Duy Tân chạy dọc theo bờ biển. Trước mặt là bãi cát trải dài xuống mặt nước đang có từng cơn sóng phẫn nộ của tháng chạp. Gió lạnh, gắt thổi từng cơn nhanh và mạnh. Mùa đông Nha Trang không đổi.
Ông Phục lấy một điếu thuốc, gắn lên môi rồi cúi xuống, áp mặt vào vạt áo khoác để bật lửa. Ánh sáng từ đầu que diêm bùng lên được giữ khéo léo, che chiều gió. Điếu thuốc được đốt. Ông Phục đưa gói thuốc cho con.
– Con cảm ơn Bố.
Thành đón lấy gói thuốc, lập lại các động tác móc thuốc, rút thuốc, gắn lên môi giống ông Phục đã làm nhưng điếu thuốc được châm bằng ngọn lửa ga nhỏ và mạnh. Trong đêm, hai đốm lửa lóe cháy, lập lòe theo từng hơi thuốc. Lần nói chuyện của hai người đã vào khúc quanh ngượng ngập. Hai điếu thuốc được đốt như hành động khỏa lấp những điều họ không muốn nhắc lại.
Hết điếu thuốc, ông Phục thả mẩu tàn xuống đất, dụi kỹ trên thềm xi măng nhám. Thành nhìn quanh tìm cái gạt tàn hoặc thùng rác nhưng không thấy. Anh chép miệng, búng mẩu thuốc còn lại ra xa. Vệt lửa bay cong trên không hơn nửa vòng rồi bị gió tạt xuống mặt cát.
– Bố không biết nói gì hơn.

Sơ Nét

Nguyễn Ý Thuần: Sinh tại Hà Nội, lớn lên tại Nha Trang.
Trước 30 tháng tư 1975:
– Đi tu
– Đi học
– Đi lính
Sau 30 tháng tư 1975:
– Đi tù
– Đi vượt biên
– Đi Mỹ
– Đi làm
Hiện tại:
– Về hưu
Bắt đầu viết từ năm 1985 trên Làng Văn, Văn Học, Nhân Văn, Ngày Nay, Thế Kỷ 21, Hợp Lưu, Văn Uyển, Hoa Sen, Người Việt, Người Việt Tự Do, Người Việt Bắc Cali, Bán Nguyệt San Tự Do, Galang v.v…
Sách đã in:
Tối Tháng Năm Tại Quán Ăn Đường Fifth: Truyện ngắn, Văn Nghệ xuất bản năm 1989.
Sợi Chỉ Trong Hồn: Truyện dài, Thời Văn xuất bản năm 1990
Người Lính Còn Lại: Truyện ngắn, Nhân Văn xuất bản năm 1991
Ở Chốn Không Quen: Truyện ngắn, Thời Văn xuất bản năm 1993.








Sợi Chỉ Trong Hồn, truyện dài

Truyện dài do Thời Văn xuất bản năm 1990
Bìa Tường Anh

323 trang – 14 chương – Giá bán 13 mỹ kim

Ở Chốn Không Quen, tập truyện ngắn

Tuyển tập truyện ngắn do Thời Văn xuất bản năm 1993
Bìa Khánh Trường
Gồm 9 truyện ngắn – Giá bán 10 mỹ kim

Đường Về trang 9 / Hai Chiều Đường Thẳng trang 29 / Điểm Nối trang 49 / Dốc Ngược trang 65 / Chuyện Ba Người Rưỡi trang 91 / Cuối Gió Mùa Xuân trang 115 / Người Đàn Bà Cởi Truồng trang 127 / Thiếu Một Cái Hang trang 147 / Thư Có Người Nhận trang 169


Ở Chốn Không Quen.

Book reviews by Nguyễn Đình Hòa

O chon khong quen (At Unfamiliar Places) is the fifth published work by the highly productive Vietnamese refugee writer Nguyen Y-Thuan. As the title indicates, this unassuming, gentle, hardworking young writer tries, in nine short stories, to capture the sentimental outlook of displaced Vietnamese of his generation, caught in the struggle in a new land of opportunities and challenges.
Living and working in the rather seedy part of San Jose, within the “Yellow Flower Valley” where refugee-owned restaurants, food markets, bookstores, jewelry shops, and pharmacies have helped resurrect the downtown area, Nguyen describes his surroundings well: the William Street section several blocks south of East Santa Clara Street, the city’s main thoroughfare. The life of newly transplanted people revolves around a couple of Oriental grocery stores, noodle shops, and Vietnamese sandwiches, and the author depicts well the movements of bored and timid occupants of cheap housing traits who rarely venture outside their dwellings, avoiding the harmless pan-handlers, prostitutes, and drunkards who may be seen in front of the movie theater, on the senior citizens’ “way home” (“Duong ve”).
In “Hai chieu duong thing” (Two Opposite Directions) an old man learns how to take care of his grandson and watches the toddler grow up into an Americanized adolescent and gradually drift away from the ancestral culture. In “Diem noi (Junction) Mr. Tri, reunited in the U.S. with his wife after a sixteen-year separation, sees his marital relationship grow cooler by the day. But his most painful experience is his feeling of alienation and his inability to adapt to the new social milieu. Differences in language, daily habits, and hobbies contribute to the collapse of another refugee family in “Doc nguoc” (The Steep Incline”): the deaths of his two sons make the situation so intolerable that Mr. Vu, a refugee from the Highland province of Ban Me Thuot, finally walks away from the new home, despite all its material amenities, because he feels like a misfit in the adoptive country. “Cuoi gio mua xuan” (Wind-Exposed in Springtime”) is a delightful vignette on the optimism of a young couple enjoying the approach of the Lunar New Year in Westminster, California, where crowds of shoppers flock to a major Asian mall to savor succulent snacks, watch passers-by and reminisce about their now faraway native coastal city- of Nha-trang in central Vietnam.
The volume’s best-constructed pieces concern the boat people’s perilous voyage from Vietnam. “Nguoi dan ba coi truong” (The Naked Woman) is about a woman who goes berserk in a Southeast Asian camp and spends hours wandering on the beach without any clothes. Later, in asylum in the U.S., she chances to meet the painter of her nude portrait at a gallery where that very portrait is being shown. In “Thu co nguoi nhan” (The Received Letter), the single most moving piece of the entire collection, one refugee writes to another now settled in another corner of America after several years in “re-education camps” and recounts his escape from Vietnam in a flimsy boat twelve meters long and three-and-a-half meters wide. Some forty-odd fugitives spent three days and four nights on their horrendous passage before reaching international waters, where they were ignored by huge merchant ships, then ran into pirates – Vietnamese pirates – whose ringleader raped a gift and her mother, then threw away what was left of the escapees’ food, fuel, and drinking water. The eleven fishing boats that happened upon them afterward belonged to Thai nationals, whose sadism and savagery were beyond human imagination. After killing five men, they forced groups of five men to perform sex acts for them to watch. But the climax occurred when they attempted to coerce a teen-age boy into copulating with his own mother: when the youth hesitated, they kicked him overboard, whereupon the mother plunged into the waves below to join her son.
The pirates somehow escorted the small boat to the Indonesian island of Matak, but the drama did not end there; five surviving women of the group were raped one by one, this time by the camp guard, a Dutch-Indonesian metisse. Bruises, teeth marks, and scratches on these women’s bodies as a result of the man’s sadism followed them to other stops (Kuku, Galang, and also Singapore) before their resettlement in the U.S. Those same permanent wounds are reminders of the boat people’s ordeal. However, in the narrator’s words, they all have “to live, in order to find themselves, to discover themselves, through whatever they still carry, including both misery and happiness.”
Nguyen Y-Thuan’s prose, both gentle and forceful, has proven unusually successful in “At Unfamiliar Places,” a collection of stories about blood, sweat, and tears shed by unlucky creatures in unlucky times.

Dinh-Hoa Nguyen 
Southern Illinois University, Carbondale

COPYRIGHT 1995 University of Oklahoma
No portion of this article can be reproduced without the express written permission from the copyright holder.
Copyright 1995 Gale, Cengage Learning. All rights reserved.


___________________________________________________________________________________

Điểm Nối


…Lần này bàn tay phải cô gái vén váy lên và bàn tay trái kéo chiếc quần lót đỏ xuống. Dưới ánh đèn, khoảng tối hũm lộ ra. Lẫn trong gió và cơn sốt chợt bừng trong người, ông Trị dật dờ, ngửi loáng thoáng mùi mồ hôi khen khét. Người vợ. Căn nhà vùng Blossom Hills. Các điều lập lại. Tiếng thở dài. Sự bẽ bàng… Đọc tiếp...

__________________________________________________________________________________

Thư Có Người Nhận


…Những hành động, thái độ ẩn hiện qua mười con người khốn khổ. Sự khoái lạc, ham muốn chỉ là cố gắng. Cố gắng làm các động tác để sống trước sự reo hò, hối thúc, thích thú của bọn hải tặc. Những đôi mắt nhắm nghiền tránh nhìn vào đôi mắt cá ươn trên khuôn đàn bà đang cùng họ bị ép vào trò chơi đớn hèn, khổ nhục….  Đọc tiếp

___________________________________________________________________________________

Đường Về

…Dù sao tôi cũng có hạnh phúc riêng. Hạnh phúc? Mẹ kiếp, bây giờ bị thằng nào húc ẩu thì sao? Tôi sẽ bị trói giữa bốn bức tường bệnh viện. Tôi sẽ tách rời cuộc sống mà tôi đang dè xẻn. Tôi không thích thế. Nên tám mươi hay hơn tám mươi bước của mười thước rút lại. Có thể thấp hơn bốn mươi bước của mười thước. Tôi và đôi dép hối hả đến bảng stop… Đọc tiếp

___________________________________________________________________________________